Bệnh nha chu là một tình trạng nhiễm trùng mạn tính vùng miệng có liên quan đến các bộ phận nâng đỡ răng như nướu răng , dây chằng nha chu, lớp xê măng bọc quanh chân răng và xương ổ răng. Bệnh nha chu, bao gồm cả viêm nướu và viêm nha chu, được bắt đầu do tích lũy các vi khuẩn xung quanh răng, có thể ảnh hưởng đến một hoặc nhiều răng và nếu không được điều trị, có thể dẫn đến mất răng, mặc dù răng không bị sâu. Đây là một tình trạng bệnh lý răng miệng thường gặp nhất ở người trưởng thành, và cũng là một trong những bệnh viêm mãn tính phổ biến nhất ảnh hưởng đến phần lớn dân số trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ bệnh nha chu lên đến 30% người trưởng thành, tuy nhiên chỉ khoảng 10% bị viêm nha chu nặng. Năm 2010, trên toàn thế giới có khoảng 750 triệu người bị viêm nha chu mạn tính, chiếm khoảng 10,8% dân số thế giới.
Chẩn đoán bệnh nha chu chủ yếu dựa vào tham khám lâm sàng với cây thăm dò William có khắc vạch từng mm để ghi nhận 5 thông số: chỉ số mảm bám ( Plaque Index: P1I), chỉ số nướu ( Gingival Index: GI), độ sâu qua thăm dò túi nha chu ( Probing Pocket Depht: PPD), độ mất bám dính lâm sàng ( Clinical Attachment loss: CAL), chỉ số phần trăm chảy máu khi thăm dò (% Bleeding on Probing: %BOP).
Xem thêm: Bệnh thường gặp của bà bầu
Nội dung chính
Ảnh hường của viêm nha chu với kết cuộc thai kỳ
Môi trường răng miệng tuy chỉ là một phần nhỏ của cơ thể, nhưng có thể xem như một tấm gương phản ánh sức khỏe toàn thân. Ở Phương Tây, từ xưa, đã có quan niệm “mỗi lần có thai người phụ nữ lại mất một chiếc răng”, cho thấy rằng sức khỏe răng miệng trong thai kỳ từ lâu đã là một vấn đề thu hút dược sự quan tâm của cộng đồng. Tương tự, ở nước ta, có thể do bị viêm nha chu mà sau sinh con răng bị lung lay, nhưng vì không hiểu nguyên nhân gây bệnh, nên các sản phụ có những kiêng khem vô lý như không chải răng mà chỉ súc miệng.
Ở người phụ nữ có thai, do nội tiết tố progestrogen làm giảm sức đề kháng miễn nhiễm, những bệnh lý răng miệng như viêm nướu, viêm nha chu tiến triển rất nhanh. Nếu không điều trị kịp thời, lớp mô nâng đỡ, các dây chằng giữ răng sẽ bị phá hủy làm tiêu xương ổ răng, răng bị lung lay và cuối cùng sẽ mất răng dù răng còn nguyên vẹn.
Mối liên hệ giữa viêm nha chu và sinh non- sinh nhẹ cân ( SN-SNC) phải đợi đến thập niên 90 của thế kỷ trước, những nghiên cứu thực nghiệm trên thú vật mới chứng minh được vai trò của các vi khuẩn gram âm ở dưới nướu răng như: Actinobacillus actinomycytemcomitans, Porphyromonas gingivalis và những độc tố lipopolysaccharide (LPS) của chúng có thể gây nên một đáp ứng miễn dịch toàn thân. Năm 1994, Collins và cộng sự đã chứng minh có chế vi khuẩn hoạt hóa các tế bào trung gian miễn dịch, sản xuất ra cytokines (như interleukins IL-1 và IL-6), yếu tố hoại tử khối u alpha ( tumor necrosis factor alpha: TNF- a), prostaglandin (đặc biệt prostagalandin E2: PGE2). Những chất nói trên có thể gây ra cơn co tử cung, dẫn đến tình trạng sinh non, sinh nhẹ cân.
Sinh non (tuổi thai dưới 37 tuần) và sinh nhẹ cân (trọng lượng thai dưới 2500 gram) là nguyên nhân chính gây nên tử suất và bệnh suất sơ sinh cao với những di chứng dài lâu, ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng y khoa và kinh tế của xã hội. Tại Hoa Kỳ, năm 2011, tỷ lệ sinh non- sinh nhẹ cân (SN-SNC) là 6,1% (theo số liệu của Agency for Healthecare Research and Quality). Bệnh viện Từ Dũ là một bệnh viện sản khoa đầu ngành ở phía nam nước ta với số sinh trong năm 2012 lên 62.022 ca, số trẻ sinh non- sinh nhẹ cân là 6.051 bé, chiếm tỷ lệ khoảng 10% (theo số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp bệnh viện Từ Dũ), con số này cho thấy đây là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của các yếu tố nguy cơ gây SN-SNC như tuổi thai phụ quá trẻ ( 34 tuổi), khó khăn về kinh tế, đa thai, chăm sóc tiền sản kém, thai phụ hút thuốc lá, uống rược, tăng huyết áp, đái tháo đường, lao động cực nhọc, hoặc nhiễm khuẩn niệu phụ khoa… Tuy vậy, vẫn còn khoảng 25% trường hợp SN-SNC xảy ra ở những thai phụ không có các yếu tố có nguy cơ nói trên, đó là lý do khiến các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng SN-SNC.
Trên thế giới, về phương diện Y học Chứng Cứ, đã có nhiều nghiên cứu cho thấy viêm nha chu là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra SN-SNC, tuy nhiên ở nước ta, chưa có nhiều nghiên cứu vấn đề này.
Nghiên cứu bệnh chứng tìm hiểu nguy cơ gây sinh non- sinh nhẹ cân của bệnh viêm nha chu. Tại Bệnh viện Từ Dũ, Khoa Hậu Sản thường trong khoảng từ tháng 9/2013 đến tháng 1/2014, một nghiên cứu bệnh chứng không bắt cặp được thực hiện với tỉ lệ 1 bệnh/ 2 chứng. Nhóm bệnh gồm 76 sản phụ sinh non tháng (tuổi thai dưới 37 tuần) sinh nhẹ cân (cân nặng Kết quả nghiên cứu: hai nhóm bệnh chứng tương đối đồng nhất về tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế. Về tình trạng sức khỏe răng miệng: tỉ lệ viêm nướu ở nhóm bệnh là 98,7%, ở nhóm chứng là 87,5%. Tỉ lệ viêm nha chu ở nhóm bệnh: 30,3% , ở nhóm chứng: 16,4%. Phân tích hồi quy logistic cho thấy viêm nha chu là yếu tố nguy cơ gây SN-SNC với OR =2,2 (95% KTC: 1,2-4,3) P=0,009.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Nghiên cứu nói trên có kết luận: sản phụ bị viêm nha chu có nguy cơ SN-SNC tăng gấp 2,2 lần so với sản phụ không bị viêm nha chu, và khuyến cáo thai phụ nên đi khám răng để được điều trị nếu có viêm nha chu. Nhờ đó tránh được nguy cơ SN-SNC.
Trong chăm sóc tiền sản, các nhà sản khoa nên chú ý thêm vấn đề sức khỏe răng miệng của thai phụ.
1. Hướng dẫn chải răng đúng cách, ít nhất 2 lần mỗi ngày
2. Hướng dẫn làm sạch kẽ răng bằng chỉ nha khoa, ít nhất 1 lần mỗi ngày.
3. Nên đi khám răng để được làm sạch răng (cạo vôi răng) nếu cần thiết, thời điểm thích hợp là trong khoảng 3 tháng giữa thai kỳ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vos, T; Flaxman, Abraham D; Naghavi, Mohsen; Lozano Rafael; Michaud, Catherine; Ezzati, Majid; Shibuya, Kenji; Salomon, Joshua A; Abdalla, Safa; Aboyans, Victor; Abraham, Jerry, Ackerman, Llana,; Aggarwal, Rakesh; Ahn, Stephanie Y; Ali, Mohammed K; Almazrson, H Ross; Anderson, Laurie M; Andrew, Kathryn G; Atkinson, Charles; Baddour, Larry M; Bahalim, Adil N; Barker- Collo, Suzanne; Barrero, Lope H; Bartels, David H; Basánez , Maria- Gloria; Baxter, Amanda; Bell, Michelle L et al. (Dec 15, 2012). “Years lived with disabillity (YLDs) for 1160 sequelae of 289 diseases and injuries 1990- 2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010”. Lancet380 (9859): 2163-96. Doi: 10.1016/S0140-6736(12)61729-2. PMID- 23245607
2. Baskaradoss JK, Geevarghese A, AI Dosari AA (2012). Causes of Adverse Pregnancy Outcomes and the Role of Maternal Periodontal Status – A review of the Liteature. Open Dent J; 6:79-84.
3. P. Barros, Heather L.Jared, Steven Offenbacher (2010). Periodontal disease and pregnancy complications. Robert J.Genco, Ray C.Williams Periodontaldisease and Overall Health: A clinician’s Guide. Professional Audience Communications, Inc, pp132-141.
4. McGaw T (2002). Periodontal disease and preterm delivery of low-birth-weight infants. Journal of the Canadian Dental Association; 68 (3): 165-9.
5. Offenbacher S, Katz V, Fertik G, Collins J, Boyd D, Maynor G, et al (1996). Periondontal infection as a possible risk factor for preterm low birth weight. Jounal of Periondontology; 67 (10 Supppl): 1103-13
6. Collis JG, Windley HW 3rd, Arnold RR, Offenbacher S (1194). Effects of a Porphyromomnas gingivalis infection on inflammatory mediator response and pregnancy outcome in hamsters. Infection and Immunity; 62 (10): 4356-61
7. Vergnes JN, Sixou M. Preterm low birth weight and maternal periodontal status: a meta analysis. Am J Obstet Gynecol 2007; 196: 135.el-7
8. Crowther CA, Thomas N, Middleton P, Chua MC, Esposito M (2009). Treating periodontal disease for preventing preterm birth in pregnant women (Protocol), The Cochrane Library, Issue 1.
9. Trần Thị Lợi, Ngô Thị Quỳnh Lan, Lê Quang Thanh, Nguyễn Thị Yến Thu, Vũ Trần Bảo Châu (2014). Nguy cơ gây sinh non- sinh nhẹ cân của bệnh nha chu. Tạp chí phụ sản-12 (02 Phụ Bản), 10-14, 2014.